Sunday, July 1, 2018

Khoe thư của một sinh viên

Dear Thầy ❤
Chắc thầy còn nhớ em đúng k ạ. Mà không, tất nhiên phải nhớ cô học trò siêu dễ thương này chứ 😂😂 Em đùa tí thôi,  dạo này thầy khỏe k ạ,  kết thúc môn xong định về gửi mail hỏi thăm mà thật lòng là em quên lãng đi vì hc nhìu quá rồi đến cả thi nữa,  nên giờ hè cũng đôi chút rãnh vì e còn đi học quân sự. Gặp thầy hôm qua thực sự em rất bất ngờ luôn ấy,  cảm thấy vui dễ sợ lun.  Về nhà nghĩ trong lòng không biết còn môn nào mình được học thầy không nữa,  rồi em cũng nhắn tin hỏi các bạn thử ai biết thầy còn dạy môn nào mà chẳng ai biết 😣 tự dưng buồn đôi chút. Mà nghĩ thôi có duyên sẽ được học với thầy nhiều hơn ❤ 
Em chẳng biết nói gì nữa 😁,  tự dưng muốn nói chuyện với thầy vậy mà đi lục cái cái sách tìm cái gmail 🙈🙈. Em chúc thầy thiệt nhìu sức khỏe để dạy tốt. Chúc thầy và gia đình một mùa hè nhìu niềm vui.  ❤❤❤
Thank you for reading my letter and I will never forget you
Sincerely


Tuesday, June 19, 2018

Những cái khó của người dạy học


Dạy cái mới phải bắt đầu từ những kiến thức và kỹ năng mà người học đã biết trước. Người dạy xây dựng dần lên trên nền tảng đó sẽ giúp người học dễ tiếp nhận, dễ hiểu, dễ thực hiện. Bởi vì trong não người học đã có một số ít mối liên hệ sẵn có, và các mối liên hệ này có thể còn rời rạc. Xây dựng trên nền tảng kiến thức cũ sẽ giúp người học tiếp nhận dễ dàng, xây dựng được các liên hệ mạnh giữa cái cũ và cái mới, gia cố thêm các mối liên hệ cũ sẵn có giữa các tế bào não. Với số lượng liên hệ lớn, mạnh và chằng chịt, người học sẽ nắm được nhiều thông tin, hiểu sâu kiến thức và thực hành tốt các kỹ năng. Nói như vậy không có nghĩa là dạy học dễ dàng. Thực ra có nhiều cái khó trong dạy học.

Cái khó thứ nhất của người dạy là làm sao nắm rõ kiến thức có trước của người học trong môn học liên quan. Và làm sao xây dựng được mối liên hệ mật thiết giữa cái kiến thức cũ và cái mới hơn, có thể trừu tượng hơn. Một cách đơn giản là nêu các ví dụ thường ngày trong đời sống, những điều bình dị dường như ai cũng biết là điểm bắt đầu thích hợp. Những ví dụ trong công nghiệp và khoa học cũng là những ví dụ điển hình giúp người học làm quen nhanh chóng. Sử dụng các câu hỏi xoay quanh các ví dụ là hình thức khơi màu tương đối tốt khi bắt đầu bài giảng. 

Cái khó thứ hai của người dạy là làm sao kích thích được người học thêm tò mò, thêm tham vọng, thêm niềm vui để học tiếp, học sâu hơn qua tự học. Muốn làm được điều này, điều tiên quyết là người dạy phải nắm chắc kiến thức chuyên môn, nắm rõ mối quan hệ giữa các khái niệm trừu tượng, với các sự vật hiện tượng trong đời sống, trong công nghiệp, và trong khoa học. Có như vậy, người dạy mới đủ khả năng kể một câu chuyện. Mỗi bài giảng là một câu chuyện. Kể chuyện càng li kỳ hấp dẫn thì càng thu hút người học, và người học sẽ nhớ lâu, hiểu sâu hơn và tò mò hơn trong cuộc phiêu lưu khám phá thế giới. 

Cái khó thứ ba của người dạy là làm sao công tâm trong kiểm tra và cho điểm số. Nói cách khác, đó chính là công bằng trong môi trường giáo dục – một phần của việc thực hiện công bằng xã hội. Dù người dạy có cố gắng nhiều đi chăng nữa, một phần nhỏ cảm tính luôn luôn xí phần trong kiểm tra đánh giá. Để khắc phục điều này, bài kiểm tra hay thi nên có thang điểm đủ chi tiết. Càng chi tiết, sự cảm tính chủ quan trong cho điểm càng giảm. Có nhiều bài kiểm tra, nhiều hình thức kiểm tra cũng là một phần giúp giảm thiểu các sai số trong chấm điểm. Người dạy nên quan tâm điều này, bởi lẽ nếu chúng ta bất công trong cho điểm sẽ vô tình làm cho người học bớt xem trọng sự cố gắng học hành. Bằng mọi cách có thể, người dạy phải chứng minh cho người học thấy rằng nếu cố gắng họ sẽ đạt được kết quả tương ứng với cố gắng đó. Tất nhiên điểm số chỉ là một phần đánh giá rất nhỏ, không thật sự nói lên năng lực của một người. Điểm số chỉ có giá trị tạm thời, tại thời điểm đánh giá trong nội dung học. Vì vậy, khi cho điểm chúng ta cần giữ đúng giá trị của nó tương xứng với sự cố gắng của người học. 

Cái khó thứ tư của người dạy học là quy mô lớp học. Lớp học càng đông càng khó dạy. Mỗi người học có khả năng khác nhau và có nền tảng kiến thức khác nhau, đó là chưa nói đến cách học khác nhau. Dạy học một lớp đông khiến người dạy không thể theo dõi chu đáo sự phát triển của mỗi người học. Dạy một lớp học đông là dạy công nghiệp, là cách dạy để tiết kiệm chi phí đào tạo chứ không vì chất lượng giảng dạy. Dạy theo cách này khiến người giỏi khó giỏi thêm, người mất căn bản càng tụt lùi. Bởi vì, chúng ta chỉ dạy cho phần đông người học ở mức trung bình. Trong một lớp học đông, nếu năng lực tự học chưa có nhiều thì người học sẽ gặp rất nhiều khó khăn, một số có thể sẽ không thể vượt chướng ngại vật trong lần đầu. Vì vậy, người dạy phải cố gắng rất nhiều mới có thể hỗ trợ cho người học được nhiều nhất có thể, sao cho người giỏi sẽ giỏi hơn thật nhiều, người mất căn bản cũng thấy được họ tiến bộ, và số ở giữa cũng có kết quả tốt hơn.

Wednesday, June 13, 2018

Mục đích của việc học và chất lượng của chương trình giáo dục


Học trang bị cho con người các kiến thức, kỹ năng nền tảng để sống tốt và sống thỏa mãn. Để được như vậy, học phải đồng thời giúp người học có cuộc sống đầy đủ về vật chất và có tinh thần tốt để sống vui vẻ. Như vậy Học có hai nhiệm vụ: (1) giúp người học có cuộc sống vật chất tốt về sau, và (2) giúp họ thỏa mãn cuộc đời với tinh thần vui vẻ. Sau đây chúng ta sẽ phân tích chi tiết hơn hai nhiệm vụ này.
Với nhiệm vụ thứ nhất, mục đích hướng tới là cuộc sống vật chất no đủ. Vậy học phải giúp con người xây dựng đủ năng lực để cung cấp được sản phẩm/dịch vụ có giá trị cho người khác. Điều này là quan trọng đầu tiên, nó giúp người học có cuộc sống tốt bằng thu nhập đủ cao nhờ vào sản phẩm/dịch vụ họ cung cấp.
Nhiệm vụ thứ hai là giá trị tinh thần. Nhiệm vụ này mặc dù sắp xếp sau nhiệm vụ vật chất, nhưng nó có vai trò quyết định đến sự hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên. Thật ra có nhiều việc có thể làm (cung cấp dịch vụ/sản phẩm) có thể mang lại nhiều của cải. Nhưng về lâu dài sẽ không bền, có nhiều rủi ro làm cho con người lo lắng nhiều hơn là sống hạnh phúc. Như việc buôn bán các sản phẩm bị cấm, hay cung cấp các dịch vụ phạm pháp. Rõ ràng các công việc này, trong ngắn hạn, có thể mang lại cuộc sống thỏa mãn vật chất nhưng tinh thần của người thực hiện công việc không thể tốt hơn và cuộc sống sẽ không được duy trì bền vững.
Một Chương trình giáo dục tốt thì phải đáp ứng được Hoàn chỉnh nhất hai nhiệm vụ này. Và tối ưu nhất là người học chọn được cho mình một nhiệm vụ (mission) trong cuộc đời và sẵn sàng dấn thân theo đuổi công việc/nhiệm vụ đó. Và họ sẵn sàng học những kiến thức và kỹ năng một cách chăm chỉ, và thực hiện việc cung cấp sản phẩm/dịch vụ giá trị. Họ tiếp tục học và hoàn thiện các sản phẩm/dịch vụ tốt hơn. Vì đã xác định sẵn nhiệm vụ cuộc đời, họ không còn lo lắng hay buâng khuâng gì nữa, mà sẽ chú tâm vào làm việc một cách điên cuồng (badly) để thực hiện công việc của họ, và để đạt được niềm vui từ công việc đó. Rõ ràng, khi xã hội ghi nhận những giá trị mà họ mang lại sẽ làm cho họ tự tin và cảm nhận được giá trị của bản thân. Và như vậy, họ sẽ tiếp tục làm tốt hơn việc mà họ đã và đang làm.
Như vậy, để giáo dục đạt hiệu quả, đầu tiên người học phải xác định nhiệm vụ của cuộc đời, sau đó trường học sẽ giúp họ có kiến thức và kỹ năng ban đầu đủ để họ thực hiện nhiệm vụ của họ. Học sẽ tiếp tục giúp họ cải thiện kiến thức, kỹ năng và cải thiện sản phẩm/dịch vụ của họ, nâng cao giá trị của sản phẩm/dịch vụ. Xã hội đón nhận và ghi nhận các sản phẩm đó, và xã hội sẵn sàng trả công (thù lao)/tán dương cho các cố gắng của tác giả. Và tác giả sẽ vui vẻ, và quay lại cố gắng tiếp để cải thiện tiếp…và xã hội tiếp tục ghi nhận và người làm vui vẻ hơn….cứ như vậy, vòng quay sẽ làm cho tất cả mọi người cùng tiến bộ, cùng vui vẻ mà sống cho hết đời người trên quả đất này. 

Một chương trình giáo dục tốt hay không sẽ được đánh giá dựa vào chất lượng sản phẩm/dịch vụ mà người học cung cấp cho xã hội. Nếu sản phẩm có giá trị cao, tức chương trình học có giá trị hay chất lượng cao. Tất nhiên, người học ngoài học những kiến thức chính ở trường, họ còn tự học hay học bên ngoài trường, từ gia đình. Do đó, kết quả họ làm ra không hoàn toàn do chương trình giảng dạy mang lại. Nhưng có thể nói, chương trình giảng dạy có tác động tích cực và có thể quyết định đến giá trị của sản phẩm/dịch vụ người học làm ra và cung cấp cho xã hội.