Monday, January 29, 2018

Quá trình học diễn ra như thế nào (learning process)



Quá trình đầu tiên là tiếp nhận thông tin một chiều và hiểu thông tin theo ý nghĩa cho sẵn, hiểu mối quan hệ giữa các thông tin/khái niệm cho sẵn. Quá trình tiếp nhận có thể thực hiện ở nhiều nơi theo nhiều cách. Ở trường, trong sách báo, internet, trao đổi trực tiếp và theo phương tiện nghe, nhìn và thực hành. Quá trình này có thể coi như quá trình bắt chước một cách triệt để, thực hiện chính xác theo hướng dẫn, hiểu theo chính xác những gì nghe nhìn thấy. 
Quá trình thứ hai là sử dụng thông tin, kiến thức, kỹ năng tiếp thu trước đó theo cách lặp lại thuần túy. Trong quá trình áp dụng, sẽ có sự thay đổi ít nhiều do đối tượng công việc thay đổi, hoàn cảnh xã hội thay đổi. Những thay đổi này của đối tượng và hoàn cảnh đưa đến nhu cầu tối ưu hóa kiến thức và kỹ năng sẵn có trước đó. Quá trình tối ưu này có thể gọi là quá trình thứ ba.
Quá trình thứ ba có thể xảy ra đồng thời xen kẻ với quá trình thứ hai. Quá trình này gồm suy nghĩ, phân tích đánh giá, so sánh thông tin, kiến thức, kỹ năng cũ để phát hiện mối quan hệ mới giữa các thông tin/kiến thức cũ, để nảy sinh ra/tìm ra kiến thức mới, từ đó đề ra cách làm mới, thiết lập kỹ năng mới. Kỹ năng giải quyết vấn đề một phần được phát triển và thể hiện trong quá trình này. Vậy muốn có cái mới phải có cái cũ trước.  Một bộ não trống rỗng không thể sản sinh ra cái mới. Tiếp nhận một chiều thông tin, kiến thức, kỹ năng có sẵn là điều kiện cần để trí não phát triển, làm tiền đề cho sự phát triển ở mức cao hơn – mức sáng tạo. Với kiến thức, khi ta hiểu thấu đáo thì ta gọi là hiểu sâu. Với kỹ năng khi ta đã thuần thục thì gọi là nhuần nhuyễn. Hiểu sâu kiến thức và nhuần nhuyễn kỹ năng là điều kiện cần tiên quyết dẫn đến sự sáng tạo.
Kiến thức: muốn hiểu sâu kiến thức thì cần có sự phân tích, đánh giá chu đáo, xem xét nhiều khía cạnh, trao đổi với người khác. Phải sẵn sàn chịu sự đánh giá nghiêm túc của người khác và trước sự phản biện của xã hội. Đối diện với phản biện để chứng minh cho sự đúng đắn hay điều chỉnh cái chưa đúng tiến đến cái đúng hơn chính xác hơn.  
Kỹ năng: muốn thuần thục kỹ năng thì phải thực hành nhiều lần, và cần sự hỗ trợ của thông tin, kiến thức (lý thuyết) liên quan.
Tổ chức: chính là khả năng nhìn thấy các mối quan hệ giữa các nguồn lực, thông tin, khái niệm, kỹ năng và tổ chức khai thác - sử dụng chúng sao cho hiệu quả nhất (tiêu tốn ít mà mang lại kết quả nhiều trong thời gian ngắn nhất). Quá trình này chính là tối ưu.
Tầm nhìn: chính là nhìn thấy mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các khái niệm, thông tin kiến thức. Từ mối quan hệ đó, có thể dự đoán được một phần tương lai của sự chuyển biến theo các mối quan hệ như nhân quả, hay các quan hệ phụ thuộc trong toán học. Tầm nhìn là thứ không tự nhiên mà có. Để có được tầm nhìn, trước tiên phải có đủ kiến thức, kỹ năng và những trải nghiệm.

Saturday, January 20, 2018

Học thực hành & Viết Báo cáo thí nghiệm




Cơ bản về Học thực hành & Viết Báo cáo thí nghiệm

Học hóa Hữu cơ thì phải học thực hành để có cảm nhận thật về hóa chất, và quá trình hóa học diễn ra như thế nào. Ngoài ra còn học cách tương tác với hóa chất, thiết bị thí nghiệm và các nguyên tắc an toàn trong phòng thí nghiệm.
Học thực hành giúp sinh viên hiểu đầy đủ hơn quá trình làm Khoa học thực nghiệm — đi từ giả thuyết (câu hỏi, dự đoán) đến thực hiện thí nghiệm để khẳng định, thay đổi hay phủ định giả thuyết đó. Quá trình này đỏi hỏi người học thực hành các nội dung sau:
Muốn có giả thuyết tốt, hay hiểu về các giả thuyết cho sẵn thì cần nắm kiến thức lý thuyết. Nếu không coi trước lý thuyết sẽ không thể hiểu được giả thuyết (cho sẵn trong sách hướng dẫn). Hoặc nếu không nắm các thông tin lý thuyết liên quan thì người thực hành không thể tự đưa ra giả thuyết tốt được. Đó là lý do vì sao sinh viên trước khi đến phòng thí nghiệm cần chuẩn bị lý thuyết ở nhà.
Chuẩn bị lý thuyết, ngoài ra còn giúp người học thực hành quan sát tốt và quan sát đúng hiện tượng trong khi tiến hành thí nghiệm. Bởi trong một thí nghiệm có thể xuất hiện nhiều hiện tượng khác nhau. Và nếu không hiểu lý thuyết, thì sẽ không giả thuyết tốt và sẽ dẫn đến không biết quan sát hiện tượng nào, như vậy phần tiến hành thí nghiệm sẽ không mang lại kết quả gì nhiều. Và công việc thí nghiệm sẽ kém đi phần hấp dẫn của nó.
Sau khi có giả thuyết, người học sẽ học cách thiết kế thí nghiệm sao cho có thể thu thập được kết quả (thông tin, hiện tượng) chính xác nhất, thực hiện được dễ dàng nhất, và tiết kiệm nhất. Để trả lời được câu hỏi, và kiểm tra giả thuyết (khẳng định giả thuyết, thay đổi giả thuyết hay phủ định giả thuyết). Trong bước thiết kế thí nghiệm người học cần chú ý các điểm chính sau:
1.     Mục đích của thí nghiệm này là để làm gì, để trả lời câu hỏi nào, hay để kiểm tra giả thuyết nào?
2.     Tiến hành thí nghiệm cần đạt được kết quả gì mới trả lời được các câu hỏi trên: quan sát hiện tượng gì (màu sắc, sủi bọt, kết tủa, đổi màu pH, dung dịch trong suốt…) hay đo đạc thông số gì (lượng, thể tích…). Đây là nội dung quan trọng quyết định đến sự thành công của thí nghiệm.
3.     Thiết kế thí nghiệm: dùng hóa chất gì, thiết bị gì, lắp đặt thiết bị ra sao, tiến hành thí nghiệm ra sao (trình tự), trong bao lâu, dùng bao nhiêu hóa chất, quan sát hiện tượng hay đo đạc gì ở đâu khi nào.
4.     Căn cứ vào lý thuyết và các quan sát tỉ mỉ, và từ giả thuyết đưa ra lời giải thích cho các hiện tượng quan sát được.
5.     Từ đó kết luận về giả thuyết ban đầu, khẳng định hay phủ định, hay cần thay đổi gì trong thí nghiệm để có kết quả tốt hơn, chắn chắn hơn (như lặp lại nhiều lần thí nghiệm).

Về việc viết báo cáo thí nghiệm

Viết báo cáo thí nghiệm nói nôm na là kể lại, ghi chép lại chuyện gì đã xảy ra từ giả thuyết cho đến khi kết luận thí nghiệm. Và báo cáo phải đủ chi tiết cho người khác đọc hiểu được đúng những gì đã xảy ra và người đọc có thể lặp lại thí nghiệm chính xác như báo cáo đã trình bày và nhận được kết quả giống với báo cáo đã viết. Báo cáo thí nghiệm phải có các nội dung:

1.     Giả thuyết, mục đích, hay các câu hỏi đặt ra cần trả lời.
2.     Hóa chất, thiết bị cách tiến hành: Dùng hóa chất gì, bao nhiêu, dùng thiết bị gì, lắp đặt ra sao và trình tự làm như thế nào, trong thời gian bao lâu…

Hãy dùng HÌNH VẼ để minh họa bước 2 này.
Càng ít viết ở đây càng tốt.

3.     Quan sát hiện tượng, đo đạc: Thấy gì, nghe gì, đo đạc được gì, ở đâu và khi nào…
4.     Giải thích, thảo luận: Nghĩ gì về những điều tai nghe mắt thấy đó, so sánh với kết quả tương tự của người khác hay các hiện tượng liên quan, so sánh với kiến thức lý thuyết.
5.     Từ đó kết luận gì về giả thuyết, mục đích và các câu hỏi đặt ra ở ban đầu. Và thí nghiệm tiến hành như vậy OK chưa?
Vài lời ghi chú:
Không nên dùng sách in/photo sẵn các đề mục ngoài tiệm để viết báo cáo. Các quyển sổ/sách này in sẵn các mục, người học chỉ cần điền vào chỗ trống. Làm như vậy sẽ rất nhanh, tiện cho người học. Nhưng lại chẳng có ích gì cho việc học cả. Vì người học không cần phải suy nghĩ đến việc tổ chức, sắp đặt thông tin trong báo cáo của mình sao cho logic, dễ hiểu. Báo cáo làm theo cách điền vào chỗ không thể hiện đúng suy nghĩ của người làm báo cáo. Không biết suy nghĩ của họ có logic không? Như vậy làm sao người hướng dẫn có thể chỉ ra các chỗ chưa tốt để sửa chữa, để tiến bộ. Viết báo cáo theo cách này là Tiết kiệm suy nghĩ để lảng phí cơ hội tiến bộ.
Vì vậy, hãy dùng vở toàn giấy trắng và viết lên đó những suy nghĩ của mình, những hiểu biết của mình và cái mình quan sát được. Vì đó là báo cáo thí nghiệm của chính mình.

21 Jan 2018
Lê Quốc Chơn

Thursday, January 11, 2018

Click vào đây để tải về: Bài tập Viết Nhóm lớp CHE203F_11 Jan 2018



   1. Chăm sóc dinh dưỡng như thế nào là tốt cho bà mẹ mang thai và tại sao.
   2. Chăm sóc dinh dưỡng như thế nào là tốt cho người bị bệnh tiểu đường và tại sao.
   3. Chăm sóc dinh dưỡng như thế nào là tốt cho người già (trên 65 tuổi) và tại sao.
   4. Chăm sóc dinh dưỡng như thế nào là tốt cho trẻ sơ sinh và tại sao.
   5. Chăm sóc dinh dưỡng như thế nào là tốt cho trẻ em dưới 10 tuổi và tại sao.
   6. Tổng quan về việc hút thuốc lá và thực trạng sản xuất thuốc lá ở Việt nam, các hệ quả.
   7. Tổng quan về việc uống rượu và tình hình uống rượu ở Việt nam, và các hệ quả
   8. Tổng quan về việc uống bia và tình hình uống bia ở Việt nam, và các hệ quả.
   9. Tổng quan về lịch sử uống cà phê ở Việt Nam, tình hình uống cà phê ở Việt nam. Phân tích các tác động tích cực và tiêu cực của uống cà phê đến sức khỏe con người.
   10. Tổng quan về lịch sử uống trà ở Việt Nam, tình hình uống trà ở Việt nam. Phân tích các tác động tích cực và tiêu cực của uống trà đến sức khỏe con người.
   11. Tổng quan về thực trạng sử dụng thuốc phiện ở Việt Nam hiện nay, và các hệ quả
   12. Tổng quan về thực trạng sử dụng chất phụ gia trong thực phẩm hiện nay ở Việt nam, và các hệ quả
   13. Tổng quan về bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam, văn hóa vệ sinh phòng bệnh của người Việt, và các hệ quả
   14.  Phân tích các ưu và nhược điểm của thuốc Đông y so với Tây y.



Yêu cầu

·        Mỗi nhóm gồm 5 sinh viên.
·        Viết một bài dài không dưới 5000 từ (tương đương 10 – 15 trang giấy A4), phải trích tài liệu tham khảo.
·        Nộp bài: nộp cả file pdf và file word đến địa chỉ mail: lequocchon@gmail.com
Tiêu đề e-mail: Bài tập Viết nhóm_CHE203F_họ và tên đại diện nhóm
·        Hạn chốt nộp bài: hết ngày 04 tháng 03 năm 2018.

Format bài viết


Bài tập Viết Nhóm lớp CHE203F

Tiêu đề: Viết tên tiêu đề vào đây

Thành viên nhóm thực hiện: (nêu danh sách họ và tên của các thành viên tham gia, phần phăm mỗi thành viên đóng góp vào bài viết)

Nội dung theo bố cục: Giới thiệu, Thân bài và Kết luận


Ghi chú: cỡ chữ 13, khoảng cách giữa hai dòng chữ 1.5, kiễu chữ là Times New Roman. Có chèn trang. Lề phải trang giấy chừa 1 cm, lề trái chừa 1.5 cm, lề trên chừa 1 cm, lề dưới 1 cm.


Tiêu chí chấm điểm

·        Bài viết khoa học (logic, có dẫn chứng rõ ràng), viết mạch lạc, ít sai lỗi chính tả, đúng format yêu cầu.
·        Nội dung bài viết hay, từ ngữ phong phú, súc tích, rõ, dễ hiểu.
·        Có sử dụng hình ảnh/sơ đồ minh họa.
·        Nộp bài đúng hạn thời gian yêu cầu.