The value of philosophy_Bertrand Russell
Những giá trị của triết học_ Lê Quốc Chơn dịch
Bertrand Russell
(1827-1970) là một trong số những nhà triết học quan trọng nhất của thế kỷ thứ
20. Những công trình triết học của ông ấy hàm chứa mọi lĩnh vực của triết học,
từ logic học cho đến triết học của toán học cho đến triết học về tôn giáo và đạo
đức. Với mong muốn đưa triết lý của mình ra thế giới đã khiến ông ấy thành lập
một trường phái triết học đặc biệt về giáo dục, và trở thành người đầu đàn ở
Vương Quốc Anh trong phong trào Cấm bom nguyên tử (Ban the (atom) Bomb), và
phát biểu ý kiến về các vấn đề đạo đức, chính trị mặc cho các nguy hiểm có thể
đến với bản thân ông.
Trong bài này, từ phần cuối
của tập sách đầy thông thái “Những vấn đề của triết học”, Russell luận rằng giá
trị của triết học không nằm ở khả năng tạo giá trị vật chất (Philosophy bakes
no bread) hay để khẳng định về bản chất của thực tế, nhưng nằm trong ảnh hưởng
của triết học lên đời sống của những người coi trọng triết học một cách nghiêm
túc. Qua những câu hỏi thường ngày về cuộc sống, chúng mở rộng sự hiểu biết của
chúng ta và giải phóng tinh thần ta.
Vậy giá trị của triết học
là gì và tại sao phải xem xét, nghiên cứu các giá trị này. Có vẻ như, dưới tác
động của khoa học và các vấn đề thực tại của cuộc sống, ta có xu hướng cho rằng
triết học không hơn không kém chỉ là các trò thảo luận vô bổ, mà ở đó chẳng
mang lại tí kiến thức nào.
Cách nhìn này dường như bắt
nguồn từ quan niệm sai lệch về cái chết (the ends of life), và một phần vì những
suy nghĩ sai lệch về các lợi ích mà triết học đang cố gắng mang đến. Khoa học tự nhiên (physical science), bằng
các phát minh, mang lại lợi ích cho rất nhiều người, mà ngay những người này lại
không hề hiểu biết gì về khoa học tự nhiên. Do đó, những nghiên cứu của khoa học
tự nhiên được khuyến khích, không những vì những ảnh hưởng của nó lên chính sinh
viên, mà còn vì những ảnh hưởng lên loài người nói chung. Và lợi ích vật chất thì
không thuộc về triết học. Nếu nghiên cứu triết học có ảnh hưởng nào đó lên những
ai không phải là sinh viên học triết, thì đó là những ảnh hưởng gián tiếp lên
lên cuộc sống của những người tìm hiểu nó. Chính điều này là thứ mà triết học
hướng đến.
Quan trọng hơn, trên con
đường tìm kiếm xác định giá trị của triết học, ta phải tránh những định kiến về
khái niệm “người thực dụng” (practical men). Người thực dụng là người mà chỉ
quan tâm đến các lợi ích vật chất, cho rằng con người cần thức ăn để nuôi cơ thể,
nhưng lại thờ ơ với những “thức ăn cho trí tuệ” (food for the mind). Nếu tất cả
chúng ta đều giàu có, nếu sự nghèo khó và bệnh tật được giảm đến mức tối thiểu,
chúng ta vẫn còn rất nhiều điều phải làm để xây dựng một xã hội thịnh vượng và
văn minh (valuable society). Thực ra, trong thế giới hiện tại, thức ăn cho trí
tuệ cũng quan trọng không kém thức ăn cho cơ thể. Và giá trị của triết học được
tìm thấy chủ yếu ở đây, đó chính là thức
ăn cho trí tuệ. Và chỉ những ai quan tâm đến điều này thì mới coi việc
nghiên cứu tìm hiểu triết học là cần thiết.
Triết học, cũng như các
khoa học khác, hướng đến hiểu biết (kiến thức). Những hiểu biết mà triết học
tìm kiếm là tạo ra sự thống nhất và có hệ thống cho toàn thể các khoa học, những
hiểu biết được truy ra từ sự xem xét một cách nghiêm túc các niềm tin, những định
kiến của chính chúng ta. Tuy vậy, phải nói rằng triết học, cho đến này vẫn chưa
hoàn toàn tìm được câu trả lời cho những câu hỏi mà nó đặt ra. Nếu bạn hỏi những
nhà toán học, nhà khoáng học, hay một nhà lịch sử học hay bất cứ nhà nghiên cứu
nào về những sự thật (chân lý) mà ngành khoa học của anh ta đã tìm thấy một
cách chắn chắn, anh ta sẽ nói cho bạn biết nhiều đến nỗi bạn không có thời gian
để nghe. Nhưng nếu bạn đặt cùng câu hỏi đó cho một nhà triết học thì anh ta, một
cách thành thật trả lời rằng triết học vẫn chưa đạt được những thành tựu tích cực
tương tự như những khoa học khác. Điều này có thể lý giải một phần bởi vì khi một
sự thật (bằng chứng nào đó) được tìm thấy một cách chắc chắn liên quan đến sự vật/hiện
tượng nào đó, thì lĩnh vực nghiên cứu về sự vật/hiện tượng đó không còn là đối
tượng của triết học nữa, mà sẽ trở thành một khoa học độc lập. Ví dụ như khoa học
vũ trụ trước đây là một phần của triết học. Hay công trình vĩ đại của Newton được
đặt tên là “những quy tắc toán học cơ bản của triết học tự nhiên” (the
mathematical principles of natural philosophy). Tương tự như vậy là khoa học nhiên
cứu về ý thức, trước đây thuộc về triết học nhưng nay đã tách biệt thành khoa học
độc lập gọi là tâm lý học. Ở một mức độ rộng lớn, rõ ràng triết học mang tính
không chắn chắn. Như vậy, những gì mà chúng ta đã tìm thấy những bằng chứng cho
sự thật thì trở thành đối tượng của khoa học. Những gì còn lại, chưa được tìm
thấy bằng chứng cho sự thật, là đối tượng của triết học.
Nhưng điều này chỉ đúng một
phần liên quan đến sự không chắc chắn của triết học. Có rất nhiều câu hỏi, mà một
vài trong số đó có sức hấp dẫn vô cùng lớn đối với đời sống tinh thần của chúng
ta, sẽ khó có thể được giải quyết bởi con người. Ngoại trừ loài người có một khả
năng phi thường nào đó mà ta chưa biết đến. Vũ trụ này có một mục đích nào đó
hay không? Hay chúng chỉ là những di chuyển ngẫu nhiên của các nguyên tử? Ý thức
là một phần thiết yếu của vũ trụ để tạo ra hi vọng cho sự thông thái, hay nó chỉ
là một trạng thái chuyển tiếp trên một hành tinh bé nhỏ mà ở đó sự sống cuối
cùng phải bị diệt vong? Tốt và xấu là quan trọng đối với vũ trụ hay chúng chỉ
có giá trị đối với con người? Những câu hỏi đó được hỏi trong triết học và được
trả lời theo các cách khác nhau bởi nhiều nhà triết học. Nhưng dường như chúng
ta thấy rằng, dù những câu hỏi đó có thể được khám phá/trả lời bởi khoa học hay
không thì, những câu trả lời đưa ra bởi triết học không có tính chân lý. Dù là
vậy đi chăng nữa, triết học vẫn luôn cố gắng tìm kiếm câu trả lời. Và chức năng
của triết học là nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của các câu hỏi đó, để
chúng ta không tự giam mình trong những kiến thức có vẻ như chắc chắn.
Tất nhiên có một số nhà
triết học cho rằng triết học có thể thiết lập chân lý/sự thật của một số câu trả
lời đối với những câu hỏi cơ bản đó. Họ cho rằng điều quan trọng nhất trong niềm
tin tôn giáo có thể được chứng minh một cách nghiêm ngặt để tìm đến sự thật. Để
đánh giá những cố gắng đó, chúng ta cần nhìn lại sự hiểu biết của con người,
các phương pháp mà con người đã dùng để tìm đến sự hiểu biết, và những hạn chế
của sự hiểu biết đó. Qua đó chúng ta thấy rằng triết học không thể có câu trả lời
cuối cùng. Và giá trị của triết học không nằm ở khả năng đưa ra câu trả lời cuối
cùng của các nhà nghiên cứu triết học.
Thật ra, giá trị của triết
học được tìm thấy trong chính sự không chắc chắn đó. Một người sống trên đời mà không quan tâm đến
triết học sẽ sống cuộc sống bị giam cầm trong các định kiến bắt nguồn từ các
thói quen, tập tục của cộng đồng, xã hội của anh ta, những điều đã ghi vào não
của anh ta từ nhỏ mà không có những lí do rõ ràng nào. Đối với một người như vậy,
thế giới đối với anh ta là một thứ gì đó xác định, chắc chắn, không tạo ra một
sự ngạc nhiên nào, và tất cả những khả năng mà anh ta không thường thấy sẽ bị bỏ
ra ngoài (loại bỏ). Chỉ khi nào ta bắt đầu triết lý, ta sẽ thấy rằng ngay cả
các sự vật/hiện tượng thông thường hằng ngày ta cũng không thể hiểu/giải thích
được một cách cặn kẽ. Mặc dù triết học không đưa ra câu trả lời cuối cùng chắc
chắn cho vấn đề/câu hỏi đặt ra, nhưng sẽ mở rộng nhiều cơ hội/khả năng khác, đồng
thời giúp trí não ta phát triển, tránh được sự độc đoán của phong tục/thói
quen. Giúp ta tiếp tục tò mò, tự hỏi về mọi thứ xung quanh, đặt vấn đề/sự vật/hiên
tượng vào các cách nhìn khác nhau, không bị giam cầm trong các giáo điều bảo thủ.
Ngoài việc mở ra các cơ hội,
khả năng, khía cạch khác khi xem xét các sự vật/hiện tượng, giá trị quan trọng
nhất của triết học chính là nằm ở chỗ giúp cho ta thoát khỏi các suy nghĩ hẹp
xung quanh đời sống thường nhật. Vì đời sống của người bình thường (không quan
tâm đến triết học) sẽ bị giam cầm trong các mối quan tâm riêng tư như gia đình
và bạn bè, và họ quên đi thế giới bên ngoài to lớn trừ khi chúng có dính dáng đến
các quan tâm riêng tư của họ. Cuộc sống như vậy có vẻ hơi hạn hẹp, và bị giới hạn.
Khác với đời sống triết học, yên tĩnh và tự do. Cuộc sống tù túng trong các mối
quan tâm thường nhật thì rất nhỏ bé, trong khi đó thế giới vũ trụ thì rộng lớn
bao la. Cái bao la đó sớm hay muộn sẽ chôn vùi cái thế giới nhỏ bé riêng tư ấy.
Trừ khi chúng ta tự mở rộng những quan tâm của chúng ta ra đến thế giới rộng lớn,
cuộc đời ta sẽ như những chàng lính ra sức bảo vệ một cái pháo đài nhỏ bé chứa
đầy khó khăn trong khi kẻ thù thì bao vay xung quanh, sớm hay muộn ta cũng phải
đầu hàng. Một cuộc sống như vậy thì không thể có sự yên bình, và luôn phải đắn
đo với những xung đột giữa các mong muốn (desire) và những bất lực. Bằng cách
nào đó, ta phải tự giải phóng mình khỏi những ràng buộc này để tìm đến tự do và
sự hoàn mỹ.
Một cách để thoát khỏi sự
tù túng đó là triết lý. Triết lý không chia thế giới ra hai phần đối lập nhau,
như tốt với xấu, bạn với thù…mà xem mọi thứ trong cái tổng hòa không phiến diện.
Triết lý không đi chứng minh rằng thế giới to lớn kia là thuộc về con người hay
mang những tính cách của con người. Trong mọi sự tiếp thu kiến thức đều là sự tự
làm lớn mình lên (enlarge the Self), nhưng cái lớn lên ấy không phải là tìm kiếm
kiến thức một cách chủ quan. Mà có được nhờ mong muốn hiểu biết một cách thuần
túy, và người tiếp thu không gán cho sự vật/hiện tượng những tính chất này kia
mà phải tự hòa nhập cái tôi của mình vào bản chất sẵn có của cái sự vật/hiện tượng
đó, tức là phải khách quan. Qua triết học, cái tôi được rộng mở, biên giới của
cái tôi luôn lớn dần lên đến cái vô hạn của thế giới vũ trụ. Và nhờ vậy, trí tuệ
cũng thông thoáng, rộng lớn như thế giới bao la đó.
Do đó, sự vĩ đại của tâm
hồn (soul) không phải được bảo vệ bởi những triết lý cho rằng vũ trụ là thuộc về
con người. Kiến thức (hay hiểu biết – knowledge) như là sự hòa lẫn giữa cái tôi
(Self) và cái vô ngã (not-Self). Không bị ràng buộc, không phải cố dồn cả thế
giới vũ trụ để hòa hợp với cái tôi. Con người rất nhỏ bé, thế giới vũ trụ tồn tại
độc lập với suy nghĩ của con người. Do đó, những ai tin rằng thế giới tạo nên bởi
suy nghĩ con người, những gì không từ suy nghĩ con người thì không thể biết là
những người sợ hãi, sợ rằng những lời nói của họ không trở thành những điều luật.
Những gì họ biết chỉ là những thói quen, những định kiến, những điều đó tạo ra
một bức tường ngăn cách bản thân họ với thế giới.
Những người có cái nhìn
triết học thì xem thế giới là có thể biết được, nhìn nhận thế giới với con mắt
của chúa trời, khách quan và vô cảm với một mong muốn duy nhất – đó là lĩnh hội
kiến thức, sự hiểu biết. Đó chính là sự tự do theo đuổi tri thức, không bị ràng
buộc bởi các tập tục, thói quen, định kiến cá nhân, cộng đồng hay xã hội, quốc gia
hay lãnh thổ, ngay cả con người. Với họ, con người chỉ là một phần vô cùng nhỏ
bé của thế giới, những gì một con người làm chẳng ảnh hưởng gì đối với thế giới.
Họ chỉ theo đuổi sự thật và chân lý, khi hành động họ theo công bằng (justice),
với tình cảm là bình đẳng, không phải yêu ghét vì lợi ích hay vì sự ngưỡng mộ.
Như vậy, họ coi mình là công dân của vũ trụ chứ không không phải của một thành
phố hay một quốc gia, hay của hành tinh này. Với cái nhìn như vậy, họ đạt đến sự
tự do thật sự, thoát khỏi mọi sự sợ hãi và những hi vọng nhỏ bé.
Tóm lại, giá trị của triết
học là ở chỗ nghiên cứu nó không phải để đi tìm một câu trả lời xác định cho
câu hỏi mà triết học đặt ra, bởi vì không có câu trả lời nào là có thể khẳng định
đúng chắc chắn. Nhưng nghiên cứu triết học chính là vì bản thân các câu hỏi. Nhờ
các câu hỏi này làm cho ta lớn lên, các khái niệm rộng mở đến những gì có thể,
làm giàu trí tưởng tượng và tránh bị giam cầm bởi các giáo điều bảo thủ. Hơn thế
nữa, triết học giúp cho trí tuệ lớn lên, hòa nhập và bao trùm cả vũ trụ bao la
và chính điều đó làm cho trí tuệ trở nên vĩ đại.
No comments:
Post a Comment